|

Đọc Thánh Kinh Trong Ánh Sáng Của Giao Ước Mới


Khi nghiên cứu Kinh thánh, quan trọng là chúng ta hiểu bối cảnh và văn mạch của Kinh thánh.Trước hết, chúng ta cần nhận biết về những nhóm người khác nhau mà Kinh thánh đang đề cập đến. Thứ hai, chúng ta cần phải hiểu rõ các sự kiện được phân chia theo thời gian. Thật ra khi Chúa Giê Xu còn sống trên đất, Ngài không thể ban cho chúng ta sự mặc khải trọn vẹn, dù Ngài đang nói đến điều đó. Vì Ngài chưa hoàn tất chương trình cứu chuộc.
Kinh thánh giải thích về kế hoạch theo tiến trình thời gian của Đức Chúa Trời, các giao ước khác nhau. Chúng ta thấy Trọng tâm của cả Kinh thánh là thập tự giá của Đấng Christ. Có một sự mặc khải thật tuyệt vời đúng thời điểm về sự chết, sự sống lại, sự thăng thiên của Chúa Giê Xu, và sự đỗ đầy Đức Thánh Linh vào ngày lễ Ngũ tuần. Chúa Giê Xu đã nói rất nhiều về thời gian sau ngày lễ Ngũ tuần. Ngài phán: “Nội ngày đó, các ngươi sẽ nhận biết rằng ta ở trong Cha ta; các ngươi ở trong ta, và ta ở trong các ngươi” (Giăng 14:20).
Có một sự mặc khải thật tuyệt vời đúng thời điểm về sự chết, sự sống lại, sự thăng thiên của Chúa Giê Xu, và sự tuôn đỗ Đức Thánh Linh vào ngày lễ Ngũ tuần
“Tuy nhiên, lúc nào Thần của Lẽ thật đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật” (Giăng 16:13). Phao Lô có giải thích về sự phân chia tương tự theo thời gian, và nói về thời gian “trước khi đức tin đến” và “sau khi đức tin đến” (Galati 3:23-25).
Chúng ta có một đặc ân lớn lao là được sống trong giai đoạn “sau khi đức tin đến” , “sau khi chúc thư có hiệu lực” (Hêbơrơ 9:16-17), và “sau khi Đức Thánh Linh đến”. Chúng ta sống “trong ngày đó” ngày mà Chúa Giê Xu thường xuyên nói đến. Đây là lúc Ngài có thể bày tỏ một cách rõ ràng cho chúng ta.
Ba nhóm đọc giả:

“Đừng làm gương xấu cho người Giu-đa, người Gờ-réc, hay là Hội thánh của Đức Chúa Trời” (ICô rinh tô 10:32). Kinh thánh chia mọi người thành ba nhóm: Người Do thái, người ngoại bang, và Hội thánh của Đức Chúa Trời. Tôi cảm ơn Mục sư Kenneth Hagin, người đã mở mắt tôi thấy nguyên tắc đơn giản này. Tôi hiểu được sự dạy dỗ này qua sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh. Một buổi sáng nọ khi tôi đang cầu nguyện cho một tình huống mà với tư cách là một mục sư phải giải quyết, Đức Thánh Linh trò chuyện cùng tôi và phán rằng câu trả lời tôi đang tìm kiếm có thể tìm thấy trong loạt bài dạy dỗ của mục sư Kenneth Hagin, trong đĩa tôi có. Tôi đã tìm thấy câu trả lời tôi cần, bên cạnh đó tôi cũng tìm được điều đã trở thành sự trợ giúp vô giá trong việc nghiên cứu Lời của Đức Chúa Trời. Tôi có thể nhận thấy điều đó trong Kinh thánh một cách rõ ràng. Có thể bạn muốn nghiên cứu điều này một cách chi tiết hơn. Vậy bạn có thể trở lại với ICôrinhtô 10:32, ICôrinhtô 9:19-23, Rôma 2:14-15, Công vụ 15:19-21, Công vụ 21:25, và Galati 2:7-8.
Phao lô chẳng ở dưới quyền của luật pháp, nhưng cũng không có nghĩa là vô luật.
Đơn giản là – có 3 nhóm người và Đức Chúa Trời tiếp cận mỗi nhóm một cách khác biệt. Sự mặc khải mà mục sư Kenneth Hagin chia sẻ, đó là có ba nguyên tắc luật pháp khác nhau trong ba nhóm người này. Người Do thái có luật của Môi se, dân ngoại có “luật của lương tâm”, và Hội thánh của Chúa có “luật của Đấng Christ” hay “luật của tình yêu”. Tất cả các nhóm này được trình bày trong ICôrinhtô 9:20-21Người Do thái ở dưới luật pháp, dân ngoại không có luật pháp. Phao lô không ở dưới luật pháp, nhưng cũng không vô luật pháp. Ông ở dưới luật của Đấng Christ. Điều này thật dễ hiểu, rõ ràng và đơn giản.
Tôi là một sinh viên trường Kinh thánh rất khắc khe. Tôi cần phải có nhiều hơn một câu Kinh thánh làm để làm sáng tỏ cho một chân lý. Tối thiểu là hai hoặc ba bằng chứng. Lẽ thật đó cũng phải hoàn toàn phù hợp với cả Kinh thánh, và không được mâu thuẩn lại với những chỗ rõ ràng khác trong Lời Chúa.
Dường như đôi lúc Kinh thánh tự mâu thuẩn với chính nó, nhưng đó chỉ là vì chúng ta không nhìn thấy toàn bộ ngữ cảnh của Kinh thánh. Lời Chúa luôn luôn nhất quán với nhau.
Vì thế cho nên, Lời Chúa chia mọi người thành ba nhóm, và có các nguyên tắc luật lệ khác nhau cho mỗi nhóm. Khi nhớ điều này chúng ta có thể dễ dàng hiểu rằng chúng ta phải để ý đến ba nhóm người khác nhau này. Cho nên tại sao thật tuyệt vời khi nghiên cứu Kinh thánh chúng ta nên tự hỏi chính mình một số câu hỏi để có thể hiểu rõ hơn về ngữ cảnh của nó.
Những câu để hỏi khi nghiên cứu Kinh thánh

Một nguyên tắc nền tảng đơn giản để hiểu rõ Kinh thánh là hỏi:

Ai đang nói?Họ đang nói với ai?Họ đang nói về điều gì?
  • Câu hỏi đầu tiên là: “Ai đang nói?”
Đức Chúa Trời cho phép nhiều người được trích dẫn trong Kinh thánh, bao gồm kẻ dại. Thậm chí ma quỷ cũng được trích dẫn nhiều lần. Trong sách Gióp có nhiều ý kiến được trình bày. Nhưng quan trọng là chúng ta thấy Đức Chúa Trời cho họ biết ý Ngài qua việc Ngài quở trách họ trong đoạn 42, nói rằng “…các ngươi nói về ta một cách không xứng đáng…” và chính Gióp nói: “Trước lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa, nhưng bây giờ, mắt tôi đã thấy Ngài: Vì vậy, tôi lấy làm gớm ghê tôi, Và ăn năn trong tro bụi” (Gióp 42:5-6).
Đây là một thông tin rất hữu ích. Bạn phải đọc 41 chương trước của sách Gióp trong ánh sáng này để suy gẫm Lời Chúa một cách đúng đắn.
Đức Chúa Trời cho phép chúng ta tham gia vào việc tìm kiếm lẽ thật được mặc khải sau cùng. Các sách văn thơ khác cũng thế – ví dụ, sách Truyền đạo. Quan trọng là cần phải hiểu rằng không phải Đức Chúa Trời là Đấng đã phán “tất cả đều là hư không!”. Đó là nhà truyền đạo trong sách này đang nói điều đó trong lúc ông cảm thấy thất vọng về cuộc sống.
  • Câu hỏi thứ hai là: “Kinh thánh đang nói cho ai?”
Khi Ti mô thê được bảo uống một ít rượu vì ông bị đau bao tử, đó không có nghĩa là một mạng lịnh cho tất cả chúng ta uống rượu. Mặt khác, Sứ đồ Phao lô đang giải thích luật của tình yêu liên quan đến vấn đề này trong Rô ma đoạn 14, và kết luận là: Hãy bước đi trong tình yêu thương!
Phần lớn những gì Chúa Giê Xu đã nói trong các sách Phúc âm cũng cần được nghiên cứu trong ánh sáng của câu hỏi Ngài đang nói với ai, Thường thì Chúa trả lời các câu hỏi của người Pharisi, và hiển nhiên câu trả lời của Ngài sẽ liên quan đến người Do thái ở dưới luật pháp và không phải nói cho các Cơ đốc nhân ngoại bang sau ngày lễ Ngũ tuần. Ngài nói một cách rõ ràng “ta được sai đến vì những con chiên lạc mất của nhà Ysơraên”.
Nhiều lần Chúa Giê Xu đã nói về luật cho người ở dưới luật pháp, và đương nhiên sự ứng dụng của nó cho dân ngoại được sanh lại ở dưới luật của Đấng Christ thì khác hoàn toàn.
————————————–Dĩ nhiên sự dạy của Chúa Giê Xu có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với chúng ta ngày hôm nay. Nhưng chúng ta phải học cách suy gẫm đúng Lời Chúa. Chúng ta phải đọc nó trong ngữ cảnh của nó. Ví dụ, khi Chúa Giê Xu phán với người trai trẻ giàu có rằng ông sẽ được cứu bằng cách vâng giữ luật pháp, Ngài phán điều này vì Ngài đang nói với một người Do thái sống ở dưới Giao ước cũ. Dĩ nhiên, Ngài biết rằng không ai có thể nhờ vào luật pháp có thể tự cứu mình. Nhưng trong trường hợp cá biệt này, Ngài liên kết câu trả lời của Ngài với thông điệp của Đức Chúa Trời dành cho người Do thái. Ngày hôm nay câu trả lời của Ngài cho người trai trẻ giàu có có thể sẽ hoàn toàn khác hẵn. Hiện tại thông điệp này là: “Vì ai kêu cầu danh CHÚA thì sẽ được cứu” (Rô ma 10:13). “Hãy tin Chúa Giê Xu Christ, thì ngươi và cả nhà ngươi sẽ được cứu…” (Công vụ 16:31). Chứ không phải là : “Bán hết gia tài mà chia cho…”
Tôi tin rằng bạn có thể thấy được tầm quan trọng của việc biết các câu trả lời cho những câu hỏi này, và cũng cho câu hỏi thứ ba:
  • “Kinh thánh đang nói về điều gì?”

Nhiều lần Chúa Giê Xu nói về luật pháp cho những người ở dưới luật pháp, và đương nhiên ứng dụng của nó dành cho dân ngoại được sanh lại ở dưới luật của Đấng Christ là điều không thể. Tất cả những điều này sẽ giúp chúng ta bày tỏ chính mình như là những người hầu việc Chúa chia sẽ Lời của Chúa một cách đúng đắn.
Và còn nhiều điều hơn nữa.
Kinh thánh

Kinh thánh được chia làm hai phần, Cựu ước và Tân ước. Khi Tân ước đề cập đến chữ “Kinh thánh” thì đó là đang nói đến Cựu ước. Vì Cựu ước là Kinh thánh mà họ có lúc bấy giờ. Lúc này chưa có Tân ước. Chúa Giê Xu thường phán “có lời chép rằng” hay “các ngươi há chưa từng nghe sao?”
Trong Công vụ chúng ta có thể đọc về những người ở Bê rê, và cách họ “đã tiếp nhận lời Chúa bằng việc đọc, nghiên cứu Kinh thánh hằng ngày để xét lời giảng có thật chăng” (Công vụ 17:11).
Sứ đồ Phao lô đã sử dụng Kinh thánh trong chức vụ của ông“Vì người hết sức bẻ bác người Giu-đa giữa thiên hạ, lấy “Kinh Thánh” mà bày tỏ rằng Đức Chúa Giê Xu là Đấng Christ” (Công vụ 18:28).
Cho nên hiển nhiên đó là mối quan tâm hiện nay đối với Cơ đốc nhân trong việc nghiên cứu Kinh Thánh – Cựu ước. Chúng ta yêu mến toàn bộ Kinh thánh.
Nhưng bây giờ chúng ta có thể đọc Kinh thánh trong ánh sáng mới. Bây giờ chúng ta có Tân ước, và Tân ước trả lời những gì Cựu ước đã đề cập đến. Kinh thánh giải thích rằng tất cả những điều xảy ra với những người ở thời Cựu ước đã xảy ra với họ như là những minh họa , hình bóng cho chúng ta những người đang sống hiện nay (ICô rinh tô 10:11).
Các sách Phúc âm và Công vụ các sứ đồ

Phần đầu của Tân Ước là một sự mặc khải về cuộc đời Chúa Giê Xu. Chúng ta có thể nghiên cứu cuộc đời và sự giảng dạy của Ngài và xem những gì Ngài đã làm cho chúng ta. Thật là tuyệt vời bước đi gần gũi với Con Đức Chúa Trời, và biết rằng Ngài đến để bày tỏ cho chúng ta về Đức Chúa Trời thực sự là ai. Các môn đồ đã viết theo những gì Đức Thánh Linh dẫn dắt họ. Công việc của họ là ghi lại cuộc đời và nơi ở của Chúa Giê Xu.
Công vụ các sứ đồ là sách kế tiếp. Đó là sách viết về lịch sử của Cơ đốc nhân đầu tiên. Những lời phán và lời hứa của Chúa Giê Xu được ứng nghiệm trong thời điểm này. Hội thánh thời Tân ước được sáng lập. Thật tuyệt vời!
Trong thời kỳ của các sách Phúc âm, Kinh Tân ước chưa được sử dụng.
Tuy nhiên, có một số vấn đề quan trọng phải được nhận biết. Trong thời kỳ của 4 sách Phúc âm, Giao ước mới vẫn chưa có hiệu lực. Đây là lý do tại sao Chúa Giê Xu nói quả quyết rằng Ngài chỉ được sai đến vì những người Do Thái. Sứ điệp của Ngài trên đất chỉ hướng đến người Do thái mặc dù sự sống, sự chết và sự sống lại của Ngài cũng được áp dụng cho tất cả chúng ta, cho dân ngoại ở xa (Ma thi ơ 15:24; 10:5-6)Quan trọng là phải hiểu được rằng Chúa Giê Xu thường nói về luật với người ở dưới luật pháp, do đó điều Ngài đã nói không phải lúc nào cũng áp dụng cho chúng ta là những người đang sống sau sự chết của Ngài tại đồi Calvary.
Để tôi cho bạn một ví dụ khác miêu tả rõ ràng về nguyên tắc của sự “được tha thứ” trước và sau sự kiện Calvary là rất khác nhau.
  • Xin Tha Tội Lỗi Cho Chúng Con, nhưng Chúng Con Tha Kẻ Phạm Tội Nghịch Cùng Chúng Con.
Trước Cavary, khi Chúa Giê Xu dạy các môn đồ Ngài cách cầu nguyện “trước lễ Ngũ tuần” bạn chú ý thấy rằng để nhận được sự tha thứ trước tiên bạn phải tha thứ. Bắt đầu là từ bạn, và trước tiên là con người phải tha thứ và yêu thương, kế đến Đức Chúa Trời sẽ tha thứ, Hãy đọc Mathiơ 6:12, 14-15.
Sứ điệp này rất rõ ràng. Bạn sẽ không được tha thứ, nếu bạn không tha thứ trước. Điều này đem đến nhiều đau đớn cho những người đã từng có một thời gian khó khăn trong việc tha thứ cho cha mẹ đã bạc đãi họ khi còn nhỏ, hay người phối ngẫu đã bội bạc họ. Nhiều nhà tư vấn đã thuyết phục mọi người miễn cưỡng tha thứ cho người khác.
Nhưng Phúc âm đem đến tin tốt lành. Nó mang sự tha thứ đến cho những tâm linh đau khổ, và phóng thích sự tha thứ thật sự đối với những người chúng ta cần phải tha thứ. Đây là thông điệp: “Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy” (Ê phê sô 4:32).
Sau Calvary thứ tự đã thay đổi! Bây giờ chúng ta không phải tha thứ để được tha thứ, nhưng chúng ta có bổn phận tha thứ như là kết quả của việc đã được tha thứ.
Công việc hoàn tất của Ngài nói rằng bởi sự hy sinh của Ngài, Ngài đã chuộc tội cho tội lỗi của thế giới này, và chúng ta đã được tha thứ tại thập tự giá. “Chúng ta yêu, vì Chúa đã yêu chúng ta trước” (IGiăng 4:19). Điều đó không bắt đầu từ chúng ta – nó bắt đầu từ Ngài. Hiểu được sự khác biệt này sẽ hiểu được chính Phúc âm.
Sau Cavary thứ tự đã thay đổi !
“Nầy sự yêu thương ở tại đây: Ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta” (I Giăng 4:10).
“Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (Rôma 5:8).
Điều đó bắt đầu từ Đức Chúa Trời, không phải chúng ta. Ngài yêu chúng ta trước, Ngài đã tha thứ cho chúng ta trước, và Ngài đã chết thay cho chúng ta đương khi chúng ta còn là kẻ có tội.
Cô lô se 3:13 xác nhận cho Ê phê sô 4:32 thật quá tuyệt vời: “Nếu một người trong anh em có sự gì phàn nàn với kẻ khác thì hãy nhường nhịn nhau và tha thứ nhau: như Chúa đã tha thứ anh em thể nào, thì anh em cũng phải tha thứ thể ấy” (Cô lô se 3:13).
Một lần nữa câu này nói thật rõ ràng ai là bên trước tiên tha thứ. Đó là Chúa Giê Xu đã tha thứ cho chúng ta. Đây là lý do tại sao chúng ta nên tha thứ. Sự cứu chuộc tạo nên sự khác biệt, bây giờ chúng ta có thể xây dựng trên những gì Chúa đã thực hiện. Và tình yêu của Ngài tuôn tràn trong lòng chúng ta, giúp chúng ta có thể tha thứ cho người khác (Rôma 5:5).
Bạn có thấy sự khác biệt lớn đem lại sau Calvary không? Thập tự giá đã để lại dấu ấn đời đời trên lịch sử, và một Giao ước mới và tốt hơn đã đến với một nền tảng mới và tốt hơn.
Khi đến đây, tôi tin rằng nhiều người sẽ dừng lại và suy nghĩ tín hợp lý của “ bài cầu nguyện chung”
Sự mặc khải chưa được ban cho.

Sự mặc khải mà sau này Phao lô đã nhận về Hội thánh, và về việc giảng Phúc âm cho dân ngoại, vẫn chưa được bày tỏ khi Chúa Giê Xu còn sống trên đất. Do đó, nó chưa được viết trong bốn sách Phúc âm. Chúa Giê Xu bảy tỏ một cái nhìn thoáng qua về điều đó, nhưng nó chưa được bày tỏ. Ngài ban cho một số “dấu hiệu” tiên tri về nó, đặc biệt là trong Phúc âm Giăng, Ngài phán, “Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi, nhưng bây giờ các điều đó cao quá sức các ngươi.”
Chúa Giê Xu thường nói đến sự phân chia về thời gian đến sau sự chết của Ngài, và nói: “Ta đã dùng ví dụ mà nói cho các ngươi mọi điều đó. Giờ đến, là khi ta chẳng còn dùng ví dụ mà nói cùng các ngươi nữa, nhưng khi ấy ta sẽ nói rõ ràng về Cha cho các ngươi. Trong ngày đó, các ngươi sẽ nhân danh ta mà cầu xin…” (Giăng 16:25-26).
Ngài cũng phán “Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến” (Giăng 16:12-13).
Đức Thánh Linh phải đến trước khi chúng ta có thể được hướng dẫn vào mọi lẽ thật. Đây là lý do tại sao Kinh Thánh không thể được ứng nghiệm trước sau khi Đức Thánh Linh được ban xuống, và sứ đồ Phao lô được chỉ định “làm ứng nghiệm Lời Chúa.” Chúa Giê Xu có rất nhiều điều nói rằng Ngài không có cơ hội để chia sẻ khi Ngài còn ở thế gian, nhưng bây giờ Ngài đã chia sẻ điều đó bằng cách mặc khải chính Ngài cho Phao lô. Vào thời điểm này Ngài đã giải thích cho chúng ta rõ ràng và công khai về ý nghĩa của sự sống và sự hy sinh của Ngài, không nói bằng ngôn ngữ tượng hình(Giăng 16:25).
Chúa Giê Xu có rất nhiều điều nói rằng Ngài không có cơ hội để chia sẻ khi Ngài còn ở thế gian, nhưng bây giờ Ngài đã chia sẻ điều đó bằng cách mặc khải chính Ngài cho Phao lô.
Tân ước có hiệu lực sau sự chết của Chúa Giê xu.
Trong thực tế đó là một sự mặc khải làm cho những phần rời rạc được ghép lại thành một mãng. Sự mặc khải này giúp hiểu được ý nghĩa của thập tự giá của Chúa Giê Xu Christ Chúa chúng ta!
Cho nên sứ đồ Phao lô nói: “Chúa Giê Xu Christ đã được miêu tả rõ ràng giữa các ngươi khi bị đóng đinh” và cách ông quả quyết rằng “ở giữa anh em, tôi chẳng biết sự gì khác ngoài Đức Chúa Giê Xu Christ và Đức Chúa Giê Xu Christ bị đóng đinh trên cây thập tự giá”. Hãy xem điều Kinh thánh nói: “Vì khi có chúc thơ, thì cần phải đợi đến kẻ trối chết đã. Chúc thơ chỉ có giá trị sau lúc chết, vì hễ kẻ trối còn sống thì nó không có quyền gì (Hêbơrơ 9:16-17).
Vì thế Tân ước có hiệu lực ở cuối Phúc âm. Chúng ta xem lướt qua điều đó trong sách Tin lành Giăng, đặc biệt là trong các chương cuối cùng. Ở đó Chúa Giê Xu đang nói tiên tri về cách Tân ước sẽ có hiệu lực sau khi Đức Thánh Linh được ban xuống.
Giao ước của Đức Chúa Trời là “giao ước bằng huyết”, vì thế Tân ước không thể bắt đầu trước khi Chúa Giê Xu chết và đỗ huyết ra.
Kinh thánh cần được đọc trong ánh sáng của vấn đề trọng tâm này: Thập tự giá của Chúa Giê Xu Christ chúng ta. Nó cũng cần được đọc trong ánh sáng của sự thật là Chúa Giê Xu đã vào Nơi Chí thánh, vào chính thiên đàng, bằng chính huyết Ngài, và ngồi xuống với tư cách là Thầy tế lễ Thượng phẩm vì tất cả những phước hạnh của sự cứu rỗi mà hiện này chúng ta có. Khi Ngài ngồi trên trời, Đức Thánh Linh được ban xuống. Đó là khi “Giao ước của Thánh Linh” có thể bắt đầu.
Sự vinh hiển sau thập tự giá của Chúa Giê Xu
Sứ đồ Phierơ dạy giống như sứ đồ Phao lô, cụ thể về thập tự giá như là mốc phân chia thời gian. Ông viết: “Về sự cứu rỗi đó, các đấng tiên tri đã tìm tòi suy xét, và đã nói tiên tri về ân điển định sẵn cho anh em: nghĩa là tìm cho biết thời kỳ nào và thời kỳ cách nào mà Thánh Linh Đấng Christ ở trong lòng mình đã chỉ cho, là khi làm chứng trước về sự đau đớn của Đấng Christ và về sự vinh hiển sẽ theo sau” (I Phierơ 1:10-11)
Nói cách khác, lúc họ nhìn thấy sự chịu khổ của Đấng Christ (thập tự giá) và sự vinh hiển sẽ theo sau. Họ đã nói tiên tri về thời kỳ chắc chắn và họ tìm cho biết thời kỳ nào và thời kỳ cách nào, họ sẽ nói tiên tri về. Họ nhìn thấy trước sự vinh quang mà chúng ta hiện đang sống nhìn thấy – chúng ta sống sau ngày lễ Ngũ tuần, trong thời kỳ Tân ước.
Họ nhìn thấy trước sự vinh quang mà chúng ta hiện đang sống nhìn thấy – chúng ta sống sau ngày lễ ngũ tuần, trong thời kỳ Tân ước.
Thời kỳ từ Giăng báp tít đến ngày lễ Ngũ tuần

Nếu chúng ta đọc một cách cẩn thận hơn nữa, chúng ta sẽ thấy rằng thời điểm từ Giăng báp tít cho đến lễ Ngũ tuần là một phân chia khác về thời gian. Từ đó Tin lành về nước Đức Chúa Trời được truyền ra, nó có thể “dùng sức mạnh để vào đó” hay “nhận lấy nó bằng sức mạnh”
“Luật pháp và các lời tiên tri có đến đời Giăng mà thôi; từ đó Tin lành của nước Đức Chúa Trời được truyền ra, và ai nấy dùng sức mạnh mà vào đó”(Luca 16:16).
“Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong những người bởi đàn bà sanh ra, không có ai được tôn trọng hơn Giăng Báp-tít, nhưng mà kẻ rất nhỏ hèn trong nước thiên đàng còn được tôn trọng hơn người. Song, từ ngày Giăng Báp-tít đến nay, nước thiên đàng bị hãm ép, và là kẻ hãm ép đó choán lấy” (Ma thi ơ 11:11-12)
Một số người đọc câu này và tin rằng Tân ước bắt đầu từ Giăng báp tít, nhưng sau đó Lời Chúa không được chia đúng đắn”.
Trước hết, Ma thi ơ 11:11 cho thấy rằng Giăng báp tít không được sanh lại và vì ông là người nhỏ hơn trong nước thiên đàng. Bạn cần được sanh lại để được vào nước thiên đàng (Giăng 3:3-5), không thể được sanh lại trước sự sống lại của Chúa Giê Xu. Chúa Giê Xu đã sống lại từ trong kẻ chết “Ngài có thể sanh đầu nhất trong nhiều anh em (Rô ma 8:29 và Cô lô se 1:18).
Thời kỳ từ Giăng báp tít đến lễ Ngũ tuần là thời gian chuyển tiếp rất quan trọng. Chúa Giê Xu sống trên đất và nước Đức Chúa Trời đang ở trong tầm tay.
Tuy nhiên, một thời kỳ hoàn toàn mới bắt đầu sau Cavary , dân ngoại được kể vào, Ngài đã đem chúng ta vào thiên đàng.
Chúa Giê Xu đã nói tiên tri về thời kỳ chúng ta đang sống

Khi Chúa Giê Xu sắp thăng thiên về trời, Ngài nói về Tân ước và thời kỳ sau lễ Ngũ tuần. Ngài phán “Nên ta ban nước cho các ngươi, cũng như Cha ta đã ban cho ta vậy” (Luca 22:29).“Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi; vì Cha các ngươi đã bằng lòng cho các ngươi nước thiên đàng” (Luca 12:32)
Nước thiên đàng sẽ đến trong quyền năng, do đó không ai phải “dùng sức mạnh để vào đó” hay “nhận lấy nó bởi sức mạnh” nữa.
Ngài lại phán cùng môn đồ rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong những người đứng đây, có mấy kẻ chẳng chết trước khi chưa thấy nước Đức Chúa Trời lấy quyền phép mà đến” (Mác 9:1).
Nói cách khác: “Nước của Đức Chúa Trời lấy quyền phép mà đến, do đó không ai phải “dùng sức mạnh để vào đó” hay “nhận lấy nó bởi sức mạnh” nữa. Dĩ nhiên không ai phải làm điều đó khi “nước thiên đàng được ban cho các ngươi” và “đó là Cha vui lòng cho chúng ta nước thiên đàng”. Chúng ta được ban cho một sự chia sẻ đầy trọn, và thời kỳ “dùng sức mạnh để vào đó” đã qua rồi.
Được dời vào nước của Đức Chúa Trời

Hãy xem sự khác biệt này sau thập tự  giá: “Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất yêu dấu Ngài” (Cô lô se 1:13).

Chúng ta ở trong, không phải ở ngoài ! chúng ta không vào đó bởi sức mạnh – chúng ta sống trong đó.
Điều này xảy ra không có bất kỳ nổ lực nào của chúng ta; chúng ta được dời vào nước của Ngài. Chính Ngài đã thực hiện điều đó – không phải chúng ta. Chúng ta không cần phải dùng sức mạnh để vào đó – Ngài đã đặt chúng ta vào nước thiên đàng. Bây giờ chúng ta được đặt vào nước của Con yêu dấu của Ngài, vì thế hiển nhiên chúng ta không đứng ở ngoài cố gắng vào đó bởi sức mạnh hay dùng sức mạnh để vào đó. Chúng ta đã được dời vào nước thiên đàng rồi. Chúng ta ở trong, không phải ở ngoài! Chúng ta không cần dùng sức mạnh để vào đó – chúng ta đang sống ở trong thiên đàng. Khi chúng ta giảng rằng Cơ đốc nhận phải dùng sức mạnh để vào thiên đàng(Luca 16:16 và Mathiơ 11:12)chúng ta đang làm ngơ với công việc của Đấng Christ, như đã nói trong Cô lô se 1:13.
Phúc âm theo Phao lô – viết bằng chữ màu đỏ

Vài năm trước Hội thánh chúng tôi có một đặc ân gặp được một nhà truyền giáo nổi tiếng Tiến sĩ T. L Osborn. Trong buổi nói chuyện, ông đã đề đến một điều đã đụng chạm đến lòng tôi. Ông nói rằng ông ước ao có ai đó sẽ in các thư tín của sứ đồ Phao lô bằng chữ màu đỏ, những chỗ mà Phao lô nói về sự cứu chuộc và công việc của thập tự giá sẽ được in màu đỏ, và những chỗ còn lại sẽ được in đen. Ông nói rằng chúng ta có các sách Phúc âm theo Ma thi ơ, Mác, Luca, và Giăng, nhưng chúng ta có phúc âm cho dân ngoại – là chúng ta – là phúc âm theo Phao lô và nó cũng nên được in bằng chữ màu đỏ.
Như bạn biết đấy, Ma thi ơ, Mác, Lu ca và Giăng cho chúng ta biết phần lớn điều đã xảy ra “theo tự nhiên” liên quan đến sự chết và sống lại của Chúa Giê Xu. Chúng ta đọc về sự đóng đinh, ngôi mộ trống, sự sống lại, thiên sứ và việc Chúa Giê Xu đã sống lại bày tỏ chính mình Ngài.
Nhưng sứ đồ Phao lô là người đã bày tỏ cho chúng ta kết quả thuộc linh về những gì đã xảy ra! Ông đã giải thích rằng chúng ta đã chết với Đấng Christ, đã sống lại với Ngài, và được ngồi với Ngài trong các nơi trên trời.
Ông đang bày tỏ cho chúng ta chiều sâu của sự cứu chuộc, và đang giải thích về Chúa Giê Xu đã trở nên tội lỗi vì chúng ta, để chúng ta có thể trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời trong Ngài. Thư tín của ông cho chúng ta biết chúng ta là ai trong Đấng Christ và những gì chúng ta có trong Đấng Christ.
Sự mầu nhiệm về Hội thánh được bày tỏ, tất cả những mảnh rời rạc được ghép lại với nhau để chúng ta có thể nhìn thấy bức tranh tổng thể theo cách đã được dấu kín trong các thời trước. Điều này bao gồm thời kỳ các sách Phúc âm và thời kỳ khi Chúa Giê đang còn tại thế.
Đây là lý do các thư tín của Phao lô sẽ có một vị trí đặc biệt trong đời sống chúng ta là người từng là dân ngoại nhưng bây giờ là một phần của Hội thánh. Chúng ta được ghép vào cây nho, và Phao lô “sứ đồ của dân ngoại” đã được ban cho một sự mặc khải về Phúc âm cho “dân ngoại”.
Điều này không làm giảm đi ý nghĩa của Cựu ước hay các sách Phúc âm, nhưng khích lệ chúng ta đọc Kinh thánh trong ánh sáng của Kinh thánh! Nếu chúng ta bỏ qua sự mặc khải trong Kinh thánh và trong kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời, chúng ta đọc Kinh thánh qua một lăng kính mờ nhạt. Có nhiều lăng kính tôn giáo mờ nhạt mà các giáo phái truyền thống và tôn giáo đã cho chúng ta.
Bạn có thể ngạc nhiên tại sao tôi nói rằng các thư tín của Phao lô nên được in bằng màu đỏ, cùng màu với những lời Chúa Giê Xu phán được in trong các sách Phúc âm. Có thể bạn cảm thấy điều này làm thổi phồng tầm quan trọng của Phao lô. Và bạn có thể tự hỏi tại sao tôi nói rằng chỉ một phần của các bức thư của ông nên được in bằng màu đỏ – không phải tất cả những điều ông viết trong các thư tín đó. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét điều đó.
Thứ nhất, Phao lô viết để giải thích sự khải thị của ông về Phúc âm. Ông đã không nhận điều này từ con người, nhưng ông nhận nó từ chính Chúa Giê Xu Christ (Galati 1:11-12).
Thứ hai, ông viết các thư tín này sau khi Đức Thánh Linh được ban xuống. Và bây giờ Chúa Giê Xu có thể bảy tỏ cho chúng tôi tất cả mọi thứ Ngài muốn nói với chúng ta nhưng không thể nói khi Ngài còn sống trên đất. “Ngày” mà Chúa Giê-xu mong đợi và chỉ định đến đã đến (Giăng 16:25).
Không phải Phao lô làquan trọng, nhưng sự khải thị mà Chúa Giê Xu ban cho ông. Không phải thư ký vĩ đại, mà là tác giả của quyển sách đó vĩ đại.
Thực ra, Phao lô chỉ là một thư ký. Ông là người viết lại sự mặc khải mà ông đã nhận trực tiếp từ Chúa Giê Xu Đấng đã sống lại. Chúng ta phải hiểu được sự mặc khải của sứ đồ Phao lô. Phao lô không phải là người quan trọng, nhưng sự mặc khải Chúa Giê Xu ban cho ông quan trọng. không phải thư ký vĩ đại, nhưng người hướng dẫn viết ra quyển sách đó. Cho nên những lời này cũng có thể được in bằng chữ màu đỏ. Chúng ta không ca ngợi Phao lô. Ngược lại, chúng ta ca ngợi Chúa Giê Xu, Đấng đã kêu gọi và xức dầu cho sứ đồ Phao lô và ban cho ông sứ mạng làm ứng nghiệm Lời của Đức Chúa Trời, như đã được đề cập trước đó.
Thứ ba, Phao lô được kêu gọi trở thành sứ đồ cho dân ngoại, và là người được Chúa kêu gọi đặc biệt để giảng Tin lành cho dân ngoại, người chưa chịu cắt bì, cũng như Phierơ được kêu gọi để giảng Tin lành cho người Do thái. Thực tế kể cả dân ngoại cũng là một phần trong sự mầu nhiệm được mặc khải cho Phao lô. Chúng ta sẽ nghiên cứu điều đó sau, nhưng điều tôi muốn nói ở đây là Phao lô đang gieo trồng Hội thánh và Kinh thánh nói rằng ông có “mối quan tâm sâu sắc về tất cả các Hội thánh” (II Cô rinh tô 11:28). Như là một người cha của các Hội thánh ông viết thư để giúp họ giải quyết các vấn đề có liên quan đến cuộc sống hằng ngày trong Hội thánh. Ông cần nói về một điều nào đó đối với Hội thánh tại Cô rinh tô, và những điều khác cho những Hội thánh khác.
Trong các bức thư gởi cho Ti mô thê ông khích lệ và hướng dẫn Ti mô thê cách trở thành một người lãnh đạo trong Hội thánh. Những điều này thật sự quan trọng đối với chúng ta, và chúng ta rút ra được nhiều sự dạy dỗ cho mình, nhưng những điều này không phải là một phần của sự mầu nhiệm đã dấu kín trải qua các thời đại. Do đó, những phần này không cần phải in chữ màu đỏ.
Trong Ê phê sô đoạn 1 và 2 chúng ta có thể thấy một ấn bản tập trung vào thông điệp Phao lô đã đưa ra.
Trong Ê phê sô đoạn 1 và 2 chúng ta có thể thấy một ấn bản tập trung vào thông điệp Phao lô đã đưa ra. (cũng như Phao lô giải thích trong Ê phê sô 3:1-6). Trong Ê phê sô 1 và 2 chỉ là một lời chào thăm ngắn gọn, sau đó ông “đi thẳng vào vấn đề” cần nói. Không đề cập đến những vấn đề liên quan đến con người hay tương tự như vậy. Phao lô nói “Khi anh em đọc thư, anh em có thể hiểu sự nhận biết về sự mầu nhiệm của Đấng Christ của tôi”. Hai chương này rất quan trọng về sự mầu nhiệm đã được mặc khải cho Phao lô.
Tôi muốn luôn tập chú vào Phúc âm của ân sủng, do đó suốt tuần lúc nào tôi cũng đọc hai chương này. Phao lô đang nói thêm về thông điệp này xuyên suốt các thư tín của ông. Những thư tín màu đỏ sẽ được tìm thấy ở nhiều chỗ khác nhau, nhưng cả đoạn 1và 2 của sách Ê phê sô phải được in chữ màu đỏ.
Các thư tín của Phierơ và Gia cơ

Không chỉ có Phao lô viết Tân ước. Nếu chúng ta giả định rằng Phao lô là tác giả của thư tín Hê bơ rơ, vẫn còn có những lá thư của Phierơ, Gia cơ và Giăng. Những sứ đồ này cũng được Đức Chúa Trời mặc khải và có ích cho sự soi dẫn, khích lệ, và an ủi.
Nhưng trong Galati 2:7-8 chúng ta đọc về sự phân chia công việc của các sứ đồ. Phierơ được kêu gọi đến với người Do thái, Gia cơ là mục sư của Hội thánh tại Giê ru sa lem – một Hội thánh Do thái tin vào Chúa Cứu thế. Theo Công vụ 21:20 nhiều người trong số họ “sốt sắng về luật pháp”.
Đương nhiên, thư tín của Phierơ và Gia cơ chủ yếu viết cho nhóm người đó. Lời giới thiệu trong các thư tín này là thực tế nói rằng thư tín đó được viết cho những người Do thái đã được cứu. Đó cũng là trường hợp của thư tín Hêbơrơ.
Những thư tín này cũng là Lời Đức Chúa Trời. Chúng cũng có một thông điệp dành cho dân ngoại. Chúng ta chỉ cần nhớ rằng các thư tín này được viết cho người “Do thái”, trong khi Phao lô chủ yếu viết cho “dân ngoại”. Nên chúng ta nhớ đọc Kinh thánh trong ánh sáng của Kinh thánh, và chúng ta sẽ phân chia Lời của Chúa một cách đúng đắn.
Các Thư tín của Giăng và sách khải huyền của Giăng

Thực ra các thư tín của Giăng viết theo nhóm riêng của chúng. Ông cũng được kêu gọi giảng Tin lành cho người Do thái. Nhưng theo lịch sử Hội thánh, Giăng đã chuyển đến Ê phê sô trong những ngày cuối đời. Vì thế trong sách Khải huyền chúng ta có thể thấy rằng ông liên kết với các Hội thánh tại Tiểu Á. Những Hội thánh này Phao lô và những bạn đồng lao của ông đã gieo trồng và tiếp tục ảnh hưởng. Một số lịch sử gia cho rằng Ti mô thê bắt đầu hợp tác chặt chẻ với Giăng sau khi Phao lô qua đời khoảng năm 67 SC. Ti mô thê rất biết ơn về sự dạy dỗ của Giăng, đó là một liều thuốc mạnh mẽ cho những người ngộ đạo. Sự dạy dỗ này sẽ làm sáng tỏ thông qua những thư tín của Giăng. Chúng ta có thể thấy rằng sự dạy dỗ của Giăng rất phù hợp với sự dạy dỗ của Phao lô về tân tạo vật và điều răn mới.
Kết luận
Cả Kinh thánh đều là Lời Đức Chúa trời và có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, nhưng tất cả những gì nói về Giao ước mới đều được bày tỏ qua Phao lô.
“Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn” (II Ti mô thê 3:16)Nhưng chúng ta phải đọc Kinh thánh trong ánh sáng của chính điều Kinh thánh đang nói đến./.
Dịch giả:
Tường Oanh




Đăng bởi VRF on 09:55. Chuyên Mục: . * Lưu ý: - Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu khi viết bình luận. - Nội dung phải liên quan đến chủ đề bài viết. - Không dùng lời lẽ khích bác, thô tục ảnh hưởng đến người khác. - Không đặt link đến Blog/Web khác. - Những góp ý, thắc mắc không liên quan các bạn vui lòng post tại Phòng Phản Hồi. Phòng Phản Hồi. Thân ái! BBT VRF

BÀI MỚI

Giải nghĩa Ga-la-ti - Thông Điệp Của Đấng Christ - Cố Ms Lê Hoàng Phu
Nhận Lấy, Nhận Lấy Và Nhận Lấy Thêm!
Tin Và Hành Động Trong Giao Ước Mới
Khoe Mình Trong Ân Điển Của Chúa Dành Cho Bạn
Sự Công Chính Vĩnh Cửu
BẠN NÓNG - LẠNH HAY HÂM HẨM ? (Khải huyền 3:16)
CƠ ĐỐC NHÂN VÀ LUẬT PHÁP? (Ro 7:1-25)

KHẨU HIỆU

free counters
Free counters
LÊN ĐẦU TRANG